Tiểu sử Thánh Tổ Giuse Nguyễn Duy Khang (phần 2)
TIỂU SỬ THÁNH GIUSE NGUYỄN DUY KHANG
NGÀY 6 THÁNG 12
THÁNH GIUSE NGUYỄN DUY KHANG THẦY GIẢNG DÒNG ĐAMINH 1832-1861
Phần 2
I. MỘT MẪU GƯƠNG CAN ĐẢM
Giáo hội Việt Nam lúc ấy đang trong tình trạng bị bách hại khốc liệt, dưới thời vua Tự Đức. Để tiêu diệt hết đạo Gia Tô trong cả nước, nhà vua ban hành chiếu chỉ phân sáp ngày 5.8.1861. Theo chiếu chỉ, mọi tín hữu Gia Tô già trẻ, lớn bé, nam nữ đều bị phân tán vào các làng ngoại giáo. Các tín hữu bị khắc chữ “tả đạo” trên má, gia đình bị phân ly, vợ một nơi, chồng một nẻo, con cái mỗi người mỗi miền. Các thánh đường, nhà chung, tài sản của giáo hữu bị tịch thu, bị chia chác hay phá hủy.
Trong bối cảnh đó, ngày 8.9, Đức Cha Hermosilla Liêm vô cùng đau đớn khi phải quyết định giải tán chủng viện Kẻ Mốt. Linh mục Khoa, đại diện ngài nói với các chủng sinh : “Anh em khỏi chào Đức Cha, kẻo ngài không cầm nổi nước mắt”. Riêng thầy Khang nhất quyết xin và được chọn để đi theo Đức Cha cho tới cùng. Khi giã từ các bạn, thầy nói nửa đùa nửa thật : “Tôi nhất định theo Đức Cha, các quan có bắt ngài, ắt sẽ chẳng tha tôi đâu, Đức Cha chết vì đạo, tôi cũng chết theo, mất đầu còn chân sợ gì.”
Từ đêm đó, hai cha con bắt đầu sống lưu lạc, tương lai tuy mờ mịt, nhưng thầy Khang vẫn vui tươi nhờ lòng tin tưởng phó thác và tâm tình hiến dâng mạng sống nếu Chúa muốn.
Ba tuần lễ đầu, thầy Khang cùng với đức Cha sống trong hang, trú ẩn ở Thọ Ninh. Nhưng quan quân đã phát hiện chỗ ở ẩn đó, nên hai cha con phải bỏ đất liền xuống một thuyền đánh cá. Thầy Khang chèo thuyền qua thị xã Hải Dương đến tá túc trên thuyền của một giáo hữu tên Bính. Chính nơi đây đã thành Tòa Giám mục “lưu động” của vị chủ chăn. Được vài ngày, hai vị tình cờ gặp Đức Cha Valentino Vinh và Linh mục Almato Bình đi thuyền từ Kẻ Nê xuống. Thật là cuộc gặp gỡ vô cùng cảm động và vui mừng của bốn vị Thánh Tử đạo Hải Dương. Các ngài tạ ơn Chúa vì cơ may đặc biệt này, các ngài trao đổi tin tức và cùng nhau cầu nguyện cho Giáo Hội. Đến sáng, các ngài chia tay mỗi thuyền đi một ngả.
Một hôm gia đình Trương Bính xảy ra cãi lộn, người con trai tức giận với cha mẹ nên tố cáo ông bà chứa chấp Đạo Trưởng.Thế là đội Bảng liền đem gi nhân đến bắt Đức Cha. Thấy họ tới nơi, thấy Khang liền nhổ cây sào chống thuyền và chạy đến chắn trước mặt họ như muốn ngầm bảo: “Phải bước qua xác tôi, rồi mới bắt ai thì bắt”. Nhưng vị Giám mục khả kính và nhân ái đã đến nắm lấy vai thầy, ngài nói: “Đừng làm gì hại họ, hãy phó mặc cho ý Chúa”. Thầy Khang ngỡ ngàng quay lại nhìn người cha già và chợt hiểu ra ý ngài, thầy chỉ nói được một lời : “Thưa vâng”, rồi bỏ sào tre xuống, đưa tay cho lính trói. Lính giải hai vị vào thành Hải Dương và giam mỗi người một nơi.
II. VỊ TỬ ĐẠO HẢI DƯƠNG
Một tháng rưỡi trong tù, thầy Khang được sống chung với một số giáo hữu, thầy liền tổ chức cho cà phòng giam đọc kinh chung mỗi ngày ba lần, mỗi tối làm việc thống hối đền tội để chuẩn bị đón nhận phúc tử đạo. Trong thời gian này, thầy bị đưa ra tòa tra tấn ba lần, bị đánh đòn nát hai bên mông. Lần nào thầy cũng can đảm chịu đựng, không hề tiết lộ bất cứ chi tiết nào về hàng giáo sĩ, không chịu bỏ đạo như các quan yêu cầu. Sau mỗi trận đòn, các giáo hữu trong ngục đều nấu nước rửa và xoa bóp cho thầy dịu bớt cơn đau.
Đặc biệt ở trong tù, thầy Khang vẫn tiếp tục viết thư cho các bạn học đang lưu lạc ở làng Hảo Hội. Một lá thư thầy viết : “Các quan mới tra tấn tôi một kỳ để hỏi Đức Cha đã ở những đâu, song tôi chẳng trả lời, trái lại vui lòng chịu đòn. Xin anh em cầu nguyện cho tôi”
Trong lá thư khác thầy viết: “Anh em cho tôi một cái quần, vì quần tôi cũ phải chịu đòn nhiều đã rách nát. Cũng xin gởi cho tôi một cái chăn để khi tôi chết có cái liệm xác đem chôn”
Ngày 6.12.1861, thầy Giuse Khang được nghe bản án trảm quyết ở kinh đô gởi ra, thầy vui vẻ theo lệnh ra pháp trường Năm Mẫu, nơi đã thấm máu người cha kính yêu của thầy ngáy 1.11 trước đó. Sau khi bị chém đầu, dân chúng địa phương an táng thi thể thầy ở ngoài ruộng.
Năm 1867, theo lệnh Đức Cha Hy, thấy Cai Hinh, anh ruột của vị Tử đạo đã rời hài cốt em mình về nhà nguyện Kẻ mốt, thủ cấp của Thánh nhân được lưu giữ tại đền thánh Hải Dương, còn hài cốt thì vẫn để ở Kẻ Mốt.
Sau biến cố năm 1954, di dân vào Nam Việt, con cháu và giáo hữu đền thánh Hải Dương đã di chuyển thủ cấp ngài vào Nam, hiện giờ đang lưu giữ tại đền thánh Hải Dương Nam Việt Hố Nai, Biên Hòa, Đồng Nai.
LƯU Ý:
- Dòng tộc Thánh Giuse Khang có kể lại rằng: ngày Thánh Giuse Nguyễn Duy Khang được phong Chân phước, các con cháu rước tượng người từ giáo xứ Thân Thượng về giáo xứ Trà Vy( nơi ngài đã sinh ra) để mừng lễ kính ngài và mở tiệc ăn mừng và vì một số đông con cháu cứ ở nhà lo tiệc tùng, không đi đón rước ngài về, nên khi cung nghinh ngài về đến đầu làng thì một sự lạ xảy ra : ngài đứng lại, tượng trở nên rất nặng không thể kiệu đi nổi. Thấy sự lạ xảy ra, con cháu phải kéo nhau ra hết để đón rước ngài về, lúc đó tượng ngài lại trở nên nhẹ nhàng để con cháu cung nghinh về làng. Đó là chứng tích đã xảy ra sự lạ đầu tiên khi ngài trở về quê hương bản xứ Trà Vy của ngài.
- Trước năm 1936, giáo xứ Trà vy thuộc địa phận chung, đến ngày 9.3.1936, Đức Thánh cha Pio VI ban sắc chỉ thiết lập địa phận Thái Bình, chia địa phận chung làm hai: địa phận Bùi Chu và địa phận Thái Bình. Ngày nay, giáo xứ trà Vy thuộc địa phận Thái Bình. Sau khi thành lập địa phận Thái Bình, phần xương sống và hài cốt được lưu giữ tại nhà thờ chính tòa của giáo phận. Riêng quê hương Trà Vy của thánh nhân được lưu giữ phần xương ống chân cho đến ngày nay.
Thánh Tổ Nguyễn Duy Khang được giới tu sĩ địa phận Thái Bình nhận ngài làm bổn mạng.
Ngày 20.5.1906, Đức Thánh Cha Pio X, suy tôn thầy Giuse Nguyễn Duy Khang cùng bốn thánh tử đạo Hải Dương lên bậc Chân phước.
Ngày 19.6.1988, Đức Thánh Cha Gioan Phaolo II phong ngài lên bậc Hiển Thánh cùng với 117 Thánh Tử Đạo Việt Nam.
Thảo luận